Ngày đăng: 27/05/2025 14:59
Lượt xem: 859
Danh nhân Vĩnh Phúc với vai trò là nhà ngoại giao thời quân chủ

                                                    

Vĩnh Phúc là vùng đất địa linh nằm ở góc Đông và Đông Bắc của xứ Đoài- nơi có bề dày lịch sử văn hóa, đồng thời là quê hương của các bậc đế vương, danh tướng và danh nho nổi tiếng tham gia vào các cuộc đánh đông dẹp bắc, mở ra những trang sử hào hùng cho vùng quê chốn xứ Đoài. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và sự thay đổi địa giới hành chính, song dù ở bất kỳ thời điểm lịch sử nào thì Vĩnh Phúc cũng là vùng đất nằm ở vị trí cận kề với các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước: Kinh đô Văn Lang thời các vua Hùng, kinh đô Cổ Loa thời Thục An Dương Vương, kinh đô Mê Linh của Trưng nữ Vương và Kinh đô Thăng Long - Đông Đô (nay là thủ đô Hà Nội).

Theo thống kê, thời kỳ quân chủ phong kiến với hơn 800 năm khoa cử Nho học đã tuyển chọn được 2.989 người dành được học vị cao nhất trong cả nước, trong đó vùng đất Vĩnh Phúc có 86 người đỗ đạt được ghi nhận trong lịch sử dân tộc. Trải các triều đại, Vĩnh Phúc có rất nhiều dòng họ liên tục có người đỗ đại khoa, có gia đình nhiều thế hệ “kế thế đăng khoa” và cũng có không ít người được nêu tên trên bảng vàng khi tuổi đời còn rất trẻ. Sau khi đăng khoa, các vị được bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình hoặc các trấn, xứ… Sự thành đạt ấy đã góp phần quan trọng trong việc định thành đội ngũ nhân tài gồm những nhà quân sự, chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục…làm rạng danh cho lịch sử dân tộc. Trong phạm vi bài viết, xin đưa ra thông tin về một số Tiến sĩ người Vĩnh Phúc đồng thời giữ cương vị là nhà ngoại giao của đất nước ở thời kỳ quân chủ Việt Nam.

1. Tiến sĩ Triệu Thái.

Tiến sĩ Triệu Thái là người xã Hoàng Chung, huyện Lập Thạch (nay là thôn Hoàng Chung, xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch).

Các nguồn tư liệu để lại đều không ghi về sinh và năm mất của Triệu Thái. Sách Đăng khoa lục chép rằng: Ông thi đỗ Tiến sĩ vào niên hiệu Vĩnh Lạc (1402- 1424) triều Minh, rồi nhận chức quan Học sĩ Viện Hàn lâm trong triều đình Trung Quốc. Năm 1428, khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, biết rằng cuộc khởi nghĩa tất thành nghiệp lớn, ông xin phép nhà vua trở về nước thăm cha mẹ rồi vào Lam Sơn tham gia cuộc khởi nghĩa chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo. Khi nước nhà giành được độc lập, ngày 25 tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2) tổ chức khoa thi Minh Kinh[1]. Với tư cách là người ẩn sĩ, Triệu Thái ra ứng thi và đỗ ở danh sách thứ nhất, sau đó ông lần lượt được bổ nhiệm các chức quan: Thị ngự sử, Đô ngự sử, Giám thí khoa thi Hội niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442). Trong thời gian tham gia chính sử, được sự tín nhiệm của triều đình, ông đã nhiều lần đảm nhận vai trò đi sứ Trung Quốc và lần nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao - ông trở thành nhà ngoại giao giỏi của đất nước lúc đương thời, ông còn được mệnh danh là nhà lập pháp, tham gia biên soạn Quốc triều điều luật triều Lê[2].

Triệu Thái là Lưỡng quốc Trạng nguyên duy nhất của tỉnh Vĩnh Phúc, người khai đại khoa cho huyện Lập Thạch. Ông có cháu nội là Hoàng giáp Triệu Tuyên Phù (đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân năm 37 tuổi khoa thi Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) đời vua Lê Thánh Tông, cũng được bổ nhiệm chức Đô ngự sử như ông).

2. Tiến sĩ Nguyễn Văn Chất.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Chất sinh năm 1422 (không rõ năm mất), là người xã Vũ Di, huyện Bạch Hạc (nay là thôn Vũ Di, xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường).

Năm 27 tuổi Nguyễn Văn Chất thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông.

Lúc mới được bổ nhiệm, ông được giao chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, sau đó giữ chức đồng Tu sử ở Quốc sử viện. Tháng 12 năm Bính Tuất, đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1466) định ra quan chế[3] và bắt đầu đặt các chức quan Tham chính, Tham nghị, Chủ sự, ông được cử giữ chức Nghệ An sảnh Tham chính (chức quan đứng đầu ở tuyên sứ ti Nghệ An). Năm Tân Mão, niên hiệu Hồng Đức (1471) ông được giao phụ trách quân lương, tham gia vào việc trả lại lương kho cho quân doanh Thuận Hóa, rồi được bổ nhiệm chức Đô ngự sử. Đến năm Canh Tý, niên hiệu Hồng Đức (1480), Nguyễn Văn Chất phụng mệnh đi sứ sang nhà Minh lo việc tuế cống, khi trở về nước ông được thăng đến chức Hộ Bộ Thượng thư.

Không chỉ thành danh trên cương vị của một nhà giáo dục, nhà ngoại giao, Nguyễn Văn Chất còn là nhà văn hóa xuất sắc của thời kỳ này. Ông chính là người soạn ra phần Tục biên của sách “Việt điện u linh tục tập” (nguyên tác Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên biên soạn vào đời vua Trần Hiến Tông, niên hiệu Khai Hựu thứ nhất, năm 1329) và là thành viên Hội Tao đàn “Nhị thập bát tú” do vua Lê Thánh Tông sáng lập. Hoàng giáp Nguyễn Văn Chất là thân phụ của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tú (đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (1481) đời vua Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Thừa chính sứ).

3. Tiến sĩ Lê Ninh.

Tiến sĩ Lê Ninh sinh năm 1448 (không rõ năm mất), là người xã Thụ Ích, huyện Yên Lạc (nay là thôn Thụ Ích, xã Liên Châu, huyện Yên Lạc).

Năm 31 tuổi, Lê Ninh thi đỗ Hội nguyên, Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Tam danh (Thám hoa) khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478), đời vua Lê Thánh Tông (Học vị của ông đứng thứ ba ở Vĩnh Phúc sau Đào Sư Tích - Trạng nguyên khoa Giáp Dần, năm 1374 và Phạm Du - Bảng nhãn khoa Đinh Mùi, năm 1547). Ông làm quan đến chức Hộ Bộ Tả thị lang kiêm Vương phó. Trên cương vị của mình, ông từng nhiều lần phụng mệnh triều đình đi sứ nhà Minh. Khi mất ông được triều đình truy tặng chức Thượng thư.

Lê Ninh là ông nội của Tiến sĩ Lê Hiến (thi đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550) đời vua Mạc Phúc Nguyên, được triều đình bổ chức quan Tả thị lang kiêm Đông các đại học sĩ).

4. Tiến sĩ Nguyễn Bảo Khuê.

          Tiến sĩ Nguyễn Bảo Khuê là người xã Lý Hải, huyện Yên Lãng (nay là thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên).

Theo cuốn “Tiết nghĩa phả tộc” (phả của dòng họ tiết nghĩa) thôn Lý Hải còn tàng thư tại Viện Nghiên cứu Hán nôm Hà Nội (nguyên bản chữ nôm, viết vào ngày 29 tháng Giêng niên hiệu Bảo Đại (1926 - 1945) thì Tiến sĩ Nguyễn Bảo Khuê là chú của Tiến sĩ Nguyễn Duy Tường[4] và là người mở đầu nền khoa bảng cho dòng họ Nguyễn Duy ở Lý Hải[5].

Năm 32 tuổi, Nguyễn Bảo Khuê thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487) đời vua Lê Thánh Tông. Sau đó ông được bổ nhiệm chức Hiệu lí Viện Hàn lâm. Tháng 11, niên hiệu Hồng Đức thứ 26 (1495), vua Lê Thánh Tông tuyển chọn ra 28 người giỏi văn chương lập hội thơ “Tao Đàn nhị thập bát tú” (28 ngôi sao của hội Tao Đàn) do Lê Thánh Tông làm chủ soái. Cùng với Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Bảo Khuê cũng được chọn là thành viên của Hội. Đến đời vua Lê Hiến Tông năm Cảnh Thống thứ 7 (1504) ông được thăng chức Hữu thị lang Bộ Lễ. Khoảng tháng 6 năm 1504, vua Túc Tông lên ngôi, niên hiệu Thái Trinh thứ nhất, triều đình cử 3 sứ đoàn gồm 9 người (3 Chánh sứ, 6 phó Chánh sứ) sang nhà Minh, mỗi đoàn phụ trách một công việc khác nhau. Đoàn sứ bộ do Nguyễn Bảo Khuê làm Chánh sứ phụ trách việc xin phong tước cho nhà vua. Việc bang giao thành công, trở về nước ông được thăng chức Tả Thị lang Bộ Hình, kiêm nhiệm chức Đình úy [6]

Các nguồn tư liệu hiện còn chỉ ghi rõ Nguyễn Bảo Khuê sinh năm 1456, mà không ghi ông mất năm nào, chỉ biết mộ của ông được táng tại quê hương ở cánh đồng Tư Kim, xã Lý Hải, nay con cháu vẫn chăm sóc giữ gìn. Ông là một trong 8 Tiến sĩ của làng được phối thờ tại đình làng Lý Hải. Bài Văn tế Tiên hiền tại đình làng có câu chúc “Hữu tuấn trắc Tao Đàn, từ lâm xích chức” (Có tài chí bước cao lên ở hội Tao Đàn, nơi rừng văn, xứng chức vụ) là để ngợi ca về Tiến sĩ Nguyễn Bảo Khuê.

5. Tiến sĩ Lê Đĩnh Chi.

Lê Đĩnh Chi sinh năm 1467, mất năm 1511, là người xã Nhạo Sơn, huyện Lập Thạch (nay là huyện Sông Lô).

Năm 33 tuổi, ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499) đời vua Lê Hiển Tông. Ông làm quan đến chức Hộ Bộ Tả thị lang, phụng mệnh triều đình với vai trò là Phó sứ đoàn sang triều đình nhà Minh làm phận sự tạ ơn về việc vua Minh ban cho tế phẩm. Hiện di duệ của ông thành một họ ở xã Nhạo Sơn.

6. Tiến sĩ Nguyễn Sư Phó.

Tiến sĩ Nguyễn Sư Phó sinh năm 1458, mất năm 1518, là người xã Lý Hải, huyện Yên Lãng (nay là thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên). Ông là cháu của Hoàng giáp Nguyễn Bảo Khuê, ông còn có tên gọi khác là Nguyễn Sư hay Nguyễn Sư Truyền.

Năm 41 tuổi Nguyễn Sư Phó thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508) đời vua Lê Uy Mục. Năm Quý Dậu, niên hiệu Hồng Thuận (1513) khi đang nắm chức quan Hàn lâm viện Kiểm thảo, ông được phụng mệnh triều đình với nhiệm vụ Phó sứ đoàn sang triều đình nhà Minh để tạ phong và ban cho nhà vua mũ áo.

Khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, Nguyễn Sư Phó không thuận theo nhà Mạc nên bị bắt giết, trước khi chết ông có đọc bài thơ nói lên ý chí tôn thờ nhà Lê, chống lại nhà Mạc. Thời Lê Trung Hưng, ông được triều đình phong là Công thần Tiết nghĩa. Mộ của ông được táng tại quê hương (nay là xóm Trại, thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên).

Cùng với Hoàng giáp Nguyễn Bảo Khuê và các Tiến sĩ của làng, ông được phối thờ lại đình làng Lý Hải. Bài Văn tế Tiên hiền tại đình làng có câu “Hữu trung ái tự tương, ba thi thố cương thường kính khí” là để tán tụng, ngợi ca về Tiến sĩ Nguyễn Sư Phó.

7. Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì.

Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì sinh năm 1572, mất năm 1652. Cuốn “Tiết nghĩa phả tộc” ở Lý Hải cho biết: Thân phụ của Nguyễn Duy Thì là Nguyễn Duy Vị, viễn tôn đời thứ 7 của Tiến sĩ Nguyễn Duy Tường (người xã Lý Hải), hưởng lộc ở xã Thanh Lãng, rồi về sau lập thành một họ Nguyễn Duy tại đây (xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc)).

Năm 27 tuổi, Nguyễn Duy Thì thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất, niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1598) đời vua Lê Thế Tông. Sau khi đỗ, ông được chính quyền nhà Lê trọng dụng, trong quá trình ấy ông có rất nhiều đóng góp cho thời đại đương thời - chính quyền phong kiến Lê Trịnh, điều đó được chứng minh trong quá trình hoạn lộ của ông:

Năm Tân Sửu (1601), ông được phong chức Hộ khoa đô cấp sự trung, tước Tử (một trong năm bậc tướng thời Lê, phong cho các bậc quan lại có công tùy theo mức độ đối với triều đình là: Công- Hầu- Bá- Tử- Nam).

Năm Bính Ngọ (1606) ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư Đô cấp sự trung, phụng mệnh làm phó đoàn đi sứ sang nhà Minh lo tuế cống. Khi về nước thăng chức Thiêm đô ngự sử, tước Phương Tuyền bá, được thưởng 45 mẫu ruộng làm hậu lộc.

Năm Tân Hợi (1611), ông được thăng phó Đô ngự sử.

Năm Ất Mão (1615) được thăng chức Lễ Bộ Tả Thị Lang; năm Canh Thân (1620) ông hộ giá cho hai đoàn sứ bộ sang tuế cống nhà Minh, được phong làm Dực vận tán trị công thần.

Năm Quý Hợi (1623), trong phủ chúa xảy ra biến loạn. Mạc Kính Khoan thừa lúc triều đình sơ hở, kéo quân xâm phạm huyện Gia Lâm hơn một tháng. Ông Nguyễn Duy Thì, mặt trong dùng kế sách dẹp loạn, mặt ngoài lo đối phó với quân Mạc. Nhờ công lao đó, ngày 16 tháng 11 năm Ất Sửu, niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 7 (1625) ông được phong từ chức Tả Thị Lang Bộ Lại, kiêm Tư nghiệp (Hiệu phó) trường Quốc Tử Giám, tước Phương Tuyền hầu.

Năm Bính Dần (1626) thăng công bộ Thượng thư, tước Tuyền quận công gia phong Thiếu phó.

                   Năm Nhân Ngọ (1642) ông lĩnh chức Binh bộ Thượng thư, gia tham tụng, lại bộ Thượng thư, chưởng Lục Bộ, kiêm Tế tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám, kiêm Hàn Lâm viện, tiến chức Thái phó, được mở phủ ở quê nhà gọi là phủ Bình Quân (nay là đền thờ Nguyễn Duy Thì). Khi mất Nguyễn Duy Thì được truy phong chức Thái tể, mộ ông được táng tại ruộng con cá thuộc xã Lý Hải, nay là xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Nguyễn Duy Thì là một trong những công thần được giao đảm nhận nhiều trọng trách trong triều đình phong kiến và ở cương vị nào, ông cũng làm rất tốt vai trò của mình. Với những đóng góp ấy, nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp ông vào trong số 39 vị phò tá có công lao tài đức của nhà Lê Trung hưng.

8. Tiến sĩ Nguyễn Duy Hiểu.

Tiến sĩ Nguyễn Duy Hiểu sinh năm 1602 (không rõ năm mất), là người xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng (nay là thôn Hợp Lễ, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên). Ông là con trai trưởng của Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì.

Năm 27 tuổi, Nguyễn Duy Hiểu thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan tới chức Lại khoa Đô cấp sự trung, thăng Thiêm sự ngự sử, tước Nghĩa Phú bá. Năm Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hòa (1637), ông phụng mệnh triều đình đi sứ sang nhà Minh lo việc tuế cống và cầu phong, đến năm Kỷ Mão (1639) trở về nước rồi qua đời. Khi mất triều đình truy tặng chức Công Bộ Tả thị lang, tước Hầu.

9. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Sách.

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Sách sinh năm 1638, mất năm 1697, là người xã Văn Trưng, huyên Bạch Hạc (nay là thôn Văn Trưng, thị trấn Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường). Về sau ông đổi tên là Nguyễn Đình Sách.

Năm 33 tuổi, Nguyễn Tiến Sách thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông. Năm Canh Ngọ (1690), ông phụng mệnh làm phó sứ đi sứ sang nhà Thanh lo việc tuế cống và thương thảo với nhà Thanh về việc dư đảng nhà Mạc còn hoạt động ở vùng Vân Nam, cũng như thổ tù ở Khai Hóa và Mông Tự thuộc Vân Nam xâm chiếm những thôn động ở châu Bảo Lạc, Vị Xuyên, Quỳnh Nhai của nước ta. Trở về nước, ông được thăng chức Binh Bộ Tả thị lang, tước Nam.

Sau khi mất, ông được triều đình truy tặng chức Công bộ Thượng thư, tước Tử, ban tên thụy là Đôn Chất.

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Sách là cha của Tiến sĩ Nguyễn Đình Toản (đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), đời vua Lê Dụ Tông, làm quan trải Tham nghị, đến chức Đông các đại học sĩ).

10. Tiến sĩ Tô Thế Huy.

Tiến sĩ Tô Thế Huy sinh năm 1666 (không rõ năm mất), là người xã Bình Đăng, huyện Bạch Hạc (nay là thôn Bình Trù, xã Sao Đại Việt, huyện Vĩnh Tường).

Lúc nhỏ ông có tên là Tô Thế Huynh, sau mới đổi tên là Tô Thế Huy, ông từng làm Huấn đạo ở phủ Tam Đới. Năm 32 tuổi, Tô Thế Huy thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1679) đời vua Lê Hy Tông. Sau khi thi đỗ, không rõ ông giữ chức vụ gì, đến năm 1720 ông nhậm chức Tả thị lang Bộ Lễ, tước Hầu; năm 1721 ông được cử làm phó sứ sang nhà Thanh lo việc tuế cống. Sau này ông giữ chức quan Lễ bộ Tả thị lang, tước Cảo Quận công.

Khi về trí sĩ, Tiến sĩ Tô Thế Huy cho dựng một ngôi đền Bách thần tại quê nhà, trong đó lưu giữ các bản thần tích do ông biên soạn trong niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740) khi còn giữ chức Tả thị lang ở Bộ Lễ. Đến triều Nguyễn, con cháu ông tiếp tục sao lục cho nhân dân các địa phương mang về thờ. Khi mất, ông được triều đình truy tặng chức Thượng thư.

Trên đây là những thông tin khái quát về thân thế và sự nghiệp của một số vị đại khoa tỉnh Vĩnh Phúc có công lớn trong việc đánh đông dẹp bắc ở thời kỳ phong kiến. Họ đều phụng mệnh triều đình đi sứ Trung Quốc giải quyết các vấn đề đặt ra trong mối quan hệ bang giao hai nước, kể cả việc tranh chấp một số địa điểm biên giới còn tồn đọng giữa hai Quốc gia. Với tài năng của mình, các nhà ngoại giao người Vĩnh Phúc đều làm rất tốt nhiệm vụ của một sứ giả khiến người Trung Quốc phải nể phục. Tên tuổi và hành trạng của các vị đều được tạc đá khắc bia ở Văn miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, đồng thời thờ tự và lưu danh trên bia Tiến sĩ ở Văn miếu Vĩnh Phúc. Hy vọng đây sẽ là nguồn sử liệu, những thông tin cơ bản góp phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu thêm về truyền thống “tôn sư trọng đạo”, kính trọng hiền tài và là tấm gương sáng để người đương thời và hậu thế noi theo.

                                                          Minh Anh (Bảo tàng-Thư viện tỉnh)

 

 


[1] Khoa thi này ở nước ta được tổ chức từ thời Lý, người thi đỗ gọi là Minh kinh bác học.

[2]Năm 1484 vua Lê Thánh Tông cho ban hành bộ luật Hồng Đức, gồm 721 điều chia thành 6 quyển với 16 chương. Đây là bộ luật gồm: Luật Hình, luật Hôn nhân, luật Gia đình, luật Dân sự và tố tụng.

[3] Quan chế triều đình phong kiến gồm có 6 Bộ chuyên trách (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), đứng đầu mỗi Bộ là chức quan Thượng thư, sau đó là chức Tả Thị lang và Hữu Thị Lang. Bộ Lại - chuyên cân nhắc, tuyển bổ quan lại trong triều đình và ngoài trấn (tổ chức tuyển dụng cán bộ nhà nước); Bộ Hộ - chuyên trách công việc ruộng đất, hộ tịch, kho tàng, tài chính; Bộ Lễ - phụ trách các công việc về lễ nghi, tế tự, ngoại giao, ấn phù…; Bộ Binh - nắm giữ công việc binh nhung; Bộ Hình - chuyên phụ trách lĩnh vực luật pháp; Bộ Công - chuyên về việc chế tạo, cầu đường, lăng tẩm, cung điện.

[4] Năm 23 tuổi, Nguyễn Duy Tường thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân nhưng ông từ chối không nhận học vị này vì cho rằng đỗ ở mức thấp, không thỏa chí; đến năm 27 tuổi ông lại dự thi và đỗ hàng Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực; ông làm quan tới chức Tham Chính

[5] Dòng họ “Kế thế đăng khoa” (có nhiều đời kế tiếp nhau thi đỗ Tiến sĩ và ra làm quan dưới các triều đại)

[6] Đình úy: Cơ quan phụng chỉ tra hỏi những án tình nghi tội nặng.