Ngày đăng: 28/05/2025 16:33
Lượt xem: 519
Ai ơi…..cùng về Hải Lựu

Nằm bên bờ tả nơi đầu nguồn con sông Lô khi chảy vào Vĩnh Phúc, vùng đất huyện Lập Thạch cũng bắt đầu từ Hải Lựu - Bạch Lựu, xưa kia là Bạch Lưu tổng - phía Bắc gối đầu lên núi Thét, phía Nam tựa dòng chảy sông Lô, địa hình ngắn, dốc của một vùng: Núi - đồi - chằm - sông tạo nên một sinh cảnh đa dạng cho các giống loài. Ngay từ buổi hồng hoang, người Việt cổ đã dựa vào vùng thiên nhiên thuận lợi để sinh tồn từ hậu kỳ đá cũ (cách nay 2 vạn năm) mà dấu tích còn lưu ở Gò Đồn, đến thời Phùng Nguyên - đồ đồng - vẫn còn nguyên di tích ở Gò Hội, trong lớp đất văn hóa khảo cổ đã khai quật, đi cùng với các loại công cụ đá, đồ gốm, đã tìm thấy rất nhiều xương, răng động vật; Trâu bò, lợn rừng, voi, chó đến chim cá, các loại nhuyễn thể: ốc, hến, ngao, sò…, tất cả đều là những sản vật được khai thác tại chỗ bởi rừng, thung, sông, chằm: Nguồn sống tự nhiên vô cùng phong phú cho con người ngay từ thời kỳ sơ khai lịch sử, di chỉ rộng vài hecta, đủ đáp ứng cho việc tham quan và nghiên cứu.

Hải Lựu có di tích khảo cổ học nổi tiếng ở thôn Đồng Soi, di chỉ Gò Hội - Hải Lựu có lễ hội chọi trâu tháng Giêng, mười bảy, hội của làng mà cho cả vùng, không riêng Vĩnh Phúc mà cả các tỉnh xung quanh, đến kỳ lễ hội, người chẳng đặng đừng:

“Dù ai đi đâu về đâu

Đến ngày mười bảy chọi trâu thì về,

Dự ai buôn bán trăm nghề

Đến ngày mười bảy thì về chọi trâu”

Con số vạn người về vui lễ hội, đường  như nêm, chen vai thích cánh để chứng kiến hàng chục “ông Đô” sau khi đã bốc thăm chia bảng, trình trước Thánh, thần từng cặp vào sới so sức, so tài giành ngôi cao thấp trong những trận chiến sống còn: “vinh quang hay là chết” đến nghẹt thở cả ngàn con tim, quyết tâm chiến thắng về cho chủ, cho giáp, cho phe, cho hội, cho phường, cũng là “màu cờ sắc áo”. Đó cũng là nghệ thuật, là chiến thuật, là đấu pháp, là tư duy của trâu nhưng cũng chính của người trải cả ngàn năm, trâu cùng người mưu sinh, trâu cùng người đánh giặc.

Ở đây lại có nghề đá chẳng biết có tự bao giờ, nguồn đỏ “Sa Thạch” được khai thác từ núi Thét là nguyên liệu chính để người cổ xưa làm ra công cụ sản xuất, người thời nay làm đồ gia dụng, phục vụ sinh hoạt gia đình, sản phẩm cho xây dựng, mỹ thuật cho trang trí khắp mọi miền trong và ngoài tỉnh, các công xưởng khai thác đá đặt ngay sườn núi, bằng các phương pháp cưa, khoan, đục dựa theo thớ đá để bóc ra những tảng nguyên liệu cho yêu cầu sản xuất, người thợ gia công, chế tạo sản phẩm ngay tại gia đình hoặc hợp lực những tay nghề kỹ thuật trong một công xưởng chung để sản xuất đồ mỹ nghệ xuất khẩu với nhiều mẫu mỳ, môtíp, kiểu dáng khác nhau theo nhu cầu của nhiều thị trường trong và ngoài tỉnh, các công xưởng gia đình, điểm tập kết nguyên liệu, sản phẩm ngày càng phát triển, mở rộng khắp toàn xã - nhỏ như cối đá giã cua, đại trà như gạch lát đường, cao cấp như đồ mỹ nghệ, tượng tròn, hoành tráng như tượng thú, có khi tới hàng tấn, sản phẩm muôn hình muôn vẻ, muôn kiểu dáng để nghề đục đá Hải Lựu được cả nước biết đến như một địa chỉ đáng tin cậy của thương hiệu nghề đá Vĩnh Phúc.

Ở đâu đất lành, ở đâu chim đậu? cuối thôn Đồng Soi là dải thung lũng được kiến tạo bởi những ngọn đồi có độ cao khoảng 400m nằm kế tiếp và song song với nhau để kết thúc là một vùng trũng chằm rộng vài chục ha, ấy là thung lũng Rừa Lẽ. Một quả đồi rộng, không cao lắm nằm kề bên thung lũng, một rừng cây thiên tạo và nhân tạo tán lá ken dày, tầng tầng lớp lớp: Tre, sộp, trám, dẻ, cây thấp, cây cao là thiên đường, là vương quốc của một loài chim chân dài, mỏ dài: Loài cò tần tảo sớm hôm trên khắp vùng miền từ: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Tây, Phú Thọ; các chi tộc của họ nhà cò: Cò Hương, cò Lửa, cò Trắng, cò Bợ,…hội tụ quần cư tạo nên một địa danh “rừng cò Hải Lựu”, nay do bà Khiêm cùng con và cháu, chẳng ngại thân cò, sớm hôm chăm chút. Để có được rừng cò hôm nay, từ cụ thân sinh ra bà đã trải vài chục năm, vượt bao gian nan khó nhọc, bao nỗi éo le, bao ngày lận đận gầy dựng vườn cò khởi nguồn từ những con cò lạc từ lúc sơ khai của những năm 50 của thế kỷ trước.

Đáp lại nghĩa tình của cụ, cò cũng rủ nhau về đây làm tổ, từng tháng, từng năm, ngày một đông vui, sinh sôi nảy nở, ân cần đối đãi để ngày càng ấm áp tình quê, tình người, tình chim, cho dù lặn lội nơi đâu, những chiều hoàng hôn xuống, từng đàn, từng tốp nhà cò lại sải dài đôi cánh miết mải trở về, lao xao, xào xạc, bay lên hạ xuống hỏi han chuyện trò, chuyện kiếm ăn, chuyện chợ búa đông tây ầm ĩ một vùng trong nắng nhạt chiều tà lãng đãng khói sương mà làm nên một sắc tháii quê hương, gây nao lòng người mỗi khi xa quê vắng bạn. Để rồi các gia đình cò lại trở về trong yên ả với con với cái, với vợ với chồng, đến sớm ban mai lại mỗi thân cò một thung một thổ.

Ai ai có dịp dù chỉ một lần đến với rừng cò vào mùa sinh nở mùa xuân mới thấy hết được cuộc sống vất vả nhưng đầy hạnh phúc của các gia đình nhà cò, hàng trăm chiếc tổ đơn sơ được tạo bởi ít cành khô vừa đủ để trứng không rơi lọt, tổ trên cành cao, tổ cách đầu người một với tay, vợ chồng cùng luân phiên ấp trứng, sau hai chục ngày trứng nở cò non, cha trông con, mẹ đi bắt tép, khi con cứng cáp tự biết trông nhà thì cha mẹ cùng chung lưng đấu cật bắt cá mò tôm, cần mẫn mớm chặm, cho đàn con khôn lớn, rồi con ra ràng, cheo leo miệng tổ, cha mẹ chông chừng, dạy con từng bước, cách thức tập bay, chân tay nhún nhảy, lấy sức cất mình vào không trung rộng mở, để tiếp tục trưởng thành, hoà mình vào cuộc sống chung của cộng đồng nhà cũ ngày càng đông đúc mà góp phần làm nên sắc thái quê hương dâng hiến con người: trọn tình, trọn đời, thuỷ chung như tình người nông dân đất Việt.

Nên chăng, hãy một lần về thăm Hải Lựu dự hội chọi Trâu, xem nghề đục đá, ngắm cánh cò bay, chắc du khách sẽ được người dân Hải Lựu vốn hiếu khách mà đãi bữa cơm quê: Có món “canh giả canh” nhớ đời. Không thể không ước ngày trở lại.

                                     M.A (theo Di tích và Danh thắng Vĩnh Phúc)