Đông Lai là một làng cổ, nằm ở phía Đông Nam của huyện Lập Thạch. Vào đầu thế kỷ XX, Đông Lai là một trong 6 làng thuộc tổng Thượng Đạt, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, làng Đông Lai thuộc xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, cư dân Đông Lai vốn có nguồn gốc ở miền đồi xa xôi, do làm ăn khó khăn nên dân làng mới di cư về phía Đông - nơi có đất đai phì nhiêu, màu mỡ hơn để sinh cơ lập nghiệp và đặt tên vùng đất này là Đông Lai, thuộc trang Bàn Giản xưa. Trang Bàn Giản xưa có bốn ngôi đình thờ “tứ thánh” gồm: Đệ nhất Xá Sơn, Đệ nhị Lê Sơn, Đệ tam Tròn Sơn và Đệ tứ Xui Sơn. Tương truyền, đây là bốn anh em - tướng lĩnh thời Hùng Vương dựng nước, đã có công dẹp loạn, dựng nghiệp, trấn ải, phù dân ở vùng này (Đông Lai - Bàn Giản - Lập Thạch). Trong thời gian trấn nhậm tại đây, để rèn luyện sức khỏe và tài khéo cho quân lính, các vị tướng đã nghĩ ra một trò chơi khá đặc biệt, đó là đẽo gọt một quả cầu gỗ tròn nhẵn tựa quả bưởi lớn, bôi dầu mỡ cho trơn rồi lăn ra giữa bãi cho quân lính tranh cướp, ai giành được quả cầu đem về đặt nơi qui ước sẽ được nhận thưởng. Về sau, các vị được dân làng lập đình và suy tôn làm Thành hoàng làng bốn mùa cúng tế.
Làng Đông Lai từ xưa đến nay không chỉ nổi tiếng bởi có lễ rước đông vui, náo nhiệt, một hội cướp phết đặc sắc thu hút hàng vạn du khách thập phương đổ về tham dự,… mà nơi đây còn nổi tiếng bởi lưu giữ một nét văn hoá ẩm thực xa xưa, đó là tục làm “cỗ bánh giầy” và tục nuôi gà thờ độc đáo làm “cỗ hàn ân” dâng lên Thành hoàng làng trong lễ hội cướp phết tổ chức vào mùng 7 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
* Tục dâng “cỗ bánh giầy”.
Trong tế thần, dù ở địa phương nào, nhất thiết phải có lễ vật, người dân Vĩnh Phúc thường gọi là “cỗ”. “Cỗ bánh giầy” (còn được gọi là “bạch từ bính”) là một trong những lễ cỗ không thể thiếu để dâng cúng Thành hoàng Đông Lai.
Xưa kia, làng Đông Lai có 4 giáp, mỗi giáp có 2 sào ruộng công dành riêng cấy lúa nếp dùng hoa lợi để làm bánh giầy phục vụ lễ tế. Mỗi năm, dân làng sẽ chọn gia đình có nề nếp, song toàn “thê vinh tứ hạnh” vợ chồng hòa thuận, gia đình êm ấm giao ruộng cho để cấy loại lúa nếp hoa vàng, chuẩn bị gạo thật ngon để làng thổi xôi, giã bánh giầy dâng tế thần. Gần đến ngày lễ, số thóc này mới được đem ra xay giã. Gạo được chọn phải là gạo thật ngon, nhặt từng hạt kỹ lưỡng, được giã đến mức trắng xanh. Đến ngày làm bánh mới đem vo, đãi kỹ, đồ thành xôi chín rồi mới đem ra giã. Bánh được chuẩn bị từ ngày mùng 6, đến sáng mùng 7 sẽ được đặt lên kiệu rước ra đình để tế lễ.
Ngày nay việc chuẩn bị tu lễ vật dâng thánh do dân tự nguyện đóng góp, mỗi gia đình 1 bơ gạo nếp và 10.000đ. UBND xã Bàn Giản cũng hỗ trợ kinh phí để tổ chức hội rất chu đáo.
- Công đoạn làm bánh:
Gần đến ngày tiệc, người ta đem thóc ra xay giã rồi giần sàng sảy thật sạch cám và trấu, sau đó đổ ra mâm đồng hoặc nia, chọn bỏ những hạt gãy, hạt đốm đen đem vo kỹ và đãi sạn, ngâm nước từ 10 tiếng trở lên, vớt ra, dội qua một lần nước sạch rồi mới đồ xôi. Xôi chín thì đem giã bánh giầy.
Thi giã bánh giầy (nguồn: Internet)
- Công đoạn giã bánh:
Mỗi làng chuẩn bị 4 cối, các thanh niên trai tráng đã được phân công trong trang phục truyền thống tập trung giã bánh giầy. Người ta đổ xôi vào các cối, mỗi cối có 4- 5 thanh niên vào cầm chày giã (chày làm bằng đoạn gốc tre non). Trong khi giã, trống chiêng được nổi lên liên hồi cùng tiếng reo hò, cổ vũ thôi thúc các chàng trai giã bánh cho đến khi xôi nhuyễn, dẻo thì mới thôi.
- Công đoạn bắt bánh, xén bánh:
Khi bánh đến độ dẻo (gọi là bánh chín), các chàng trai dùng chày nhấc khối nếp ra khỏi cối dâng lên cho 2 cụ già hương lão có kinh nghiệm và khéo tay bắt bánh. Để bánh khỏi dính, dùng lòng đỏ trứng gà đã luộc chín, hoà với rượu cho thật tinh khiết xoa lên lòng bàn tay, bắt bánh tròn, đều được đặt lên bàn có dải lá chuối, khi bánh nguội dùng kéo cắt khoanh bỏ phần lá chuối thừa (gọi là xén bánh).
* Tục “cỗ hàn âm”.
Từ xưa đến nay, gà trống, sỏ lợn, chân giò là những lễ vật dâng cúng truyền thống của cư dân nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Song để trở thành tục lệ gọi là “cỗ hàn âm” (còn gọi là “cỗ ông Gà”) thì chỉ có ở Đông Lai (xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch) mới có.
Để có “ông Gà” dâng Thánh trong lễ hội, từ khoảng tháng 11 âm lịch năm trước, các thôn/làng sẽ cử người về làng Mía (Sơn Tây) chọn mua giống gà Mía to đẹp, đầu to, mào cờ, cổ cao, ngực nở, chân cao to và nặng khoảng chừng hơn 4 kg mang về giao cho một gia đình song toàn, con cháu chăm ngoan, có phẩm hạnh tốt chăm sóc nuôi gà. Từ đây, gà sẽ được gọi là “ông Gà”, được nuôi dưỡng theo chế độ đặc biệt. Nhà được dân làng chọn cử nuôi gà phải chuẩn bị chuồng rất cẩn thận, quây liếp bằng cót, có cửa ra vào khép kín, được bố trí ngay cạnh gian nhà chủ ở cho tiện chăm sóc. Chuồng gà phải luôn sạch sẽ, thường xuyên vệ sinh bằng nước cỏ sả, đốt quả bồ kết, quét dọn bằng chổi xể và luôn luôn để nước sạch, treo rau diếp lên trên phên liếp. Thức ăn cuả “ông Gà” gồm các thứ như: Hạt kê, bột ngô, bột đậu xanh tán nhỏ, luyện với nước chè và nặn từng viên bằng đầu ngón tay. Trước khi vào bón mồi cho “ông Gà”, trai đinh phải tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo gọn gàng, thắp hương trước cửa khấn thần tài, thổ địa phù hộ cho trai đinh khoẻ mạnh, may mắn trong việc nuôi gà, trong bài khấn nhất nhất phải gọi là “ông Gà”. Khấn xong trai đinh ôm trọn “ông Gà” vào lòng, tay trái đỡ cổ, tay phải bón thức ăn, sau đó cho “ông Gà” uống nước chè xanh. Cứ như thế, ngày nào cũng vậy, trai đinh chăm sóc “ông Gà” cho tới ngày giáp tiệc, đảm bảo mỗi con đạt khoảng trên dưới 5 kg.
Tối mùng 6/Giêng thì dân làng mổ gà làm cỗ thờ hay còn gọi là lễ “vật ông Gà”. Giờ làm lễ “vật ông Gà” được chọn vào giờ dần (từ 3 giờ sáng trở đi). Trước khi “vật ông Gà”, dân làng có lễ thỉnh Thành hoàng mong phù hộ cho dân làng được nhân khang vật thịnh, mọi ước vọng đều được toại nguyện. Sau đó chiêng - trống nổi lên, hội “vật ông Gà” chính thức được bắt đầu. Người được chọn cử cắt tiết, mổ “ông Gà” phải là người khéo léo, có đạo đức, không khiếm khuyết về cơ thể, được dân làng kính trọng, gia đình song toàn, con cháu phương trưởng, có của ăn của để, không vướng bụi.
Điều đặc biệt, người ta không dùng dao mà lấy một thanh nứa để chọc vào mạch máu ở dưới tai “ông Gà” để vết nứt rất nhỏ. Yêu cầu của việc “vật ông Gà” rất cao, tựa như việc phẫu thuật phải khéo léo, làm sao cho “ông Gà” không bị nứt da, toạc đầu hoặc gãy cánh, không cắt chân mà giữ nguyên hình “ông Gà”, lòng mề được lôi ra từ phía hậu môn xong khâu lại. Trẻ lạt bằng tre để buộc dựng tạo dáng cánh, cổ vươn cao theo dáng phượng bay, gọi là “uốn Gà thờ”. Sau đó đặt “ông Gà” vào nồi đồng cỡ đại, ban đầu đun ở nhiệt độ nước lăn tăn từ 70 độ, dần dần tăng lên 100 độ. Củi than luộc gà bằng gỗ trám có mùi nhựa thơm, đun làm sao để “ông Gà” giữ được nguyên hình dáng, không bị nứt nẻ, không nghiêng lệch. Đây là bước vô cùng quan trọng và hồi hộp, cả thôn/làng cổ vũ, reo hò vang dậy khắp muôn nơi. Khi “ông Gà” vớt ra thì được đưa ngay lên bàn thờ, lá mỡ gà to bằng bát được buộc chỉ để trên lưng “ông Gà”, các cụ lấy một búp tre tươi hoặc bông hoa hồng đỏ cài vào mỏ “ông Gà” cho đẹp.
Sáng mùng 7/Giêng, dân làng tụ hội để xếp lễ vật của mình vào kiệu, rồi rước lên công đồng dâng thánh.
Lễ rước “cỗ ông Gà”
(nguồn: Internet)
Những lễ vật dâng Thánh trong lễ hội ở Bàn Giản tuy bình dị, là sản phẩm từ cây trồng và chăn nuôi của người nông dân nhưng lại chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, góp phần đem lại niềm tin và sức sống cho cộng đồng trải qua bao thế hệ. Điều đó chứng tỏ rằng, từ xa xưa, ông cha ta đã biết thông qua một lễ thức mang tính tôn giáo để lồng vào đó ý thức đoàn kết, rèn đức, luyện tài, bên cạnh đó còn chủ ý hướng thiện với việc cầu cho mưa thuận, gió hòa, nhà nhà yên vui, người người hạnh phúc.
Thúy Hằng
* Tài liệu tham khảo:
1. Ban Quản lý di tích tỉnh Vĩnh Phúc (2018), phòng Nghiệp vụ Di sản văn hóa phi vật thể, Báo cáo kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể xã Bàn Giản (huyện Lập Thạch)
2. Nguyễn Xuân Lân (2000), Địa chí Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Vĩnh Phúc
3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc (2021), Kịch bản Trò diễn “Đả cầu cướp phết” xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.